Từ vựng tiếng mẹ đẻ và từ vựng ngoại ngữ Từ_vựng

Từ vựng tiếng mẹ đẻ

Các từ vựng của những người nói tiếng mẹ đẻ một ngôn ngữ nào đó thay đổi rất nhiều, và đặc biệt phụ thuộc vào trình độ giáo dục của họ. Một nghiên cứu vào năm 1995 đã đánh giá kích thước từ vựng của một người nói đã qua giáo dục đại học vào khoảng 17 000 họ từ, còn của sinh viên đại học năm nhất (đã qua giáo dục trung học) thì vào khoảng 12 000.[10]

Từ vựng ngoại ngữ

Ảnh hưởng của kích thước từ vựng lên sự hiểu biết ngôn ngữ

Francis và Kucera[11] đã nghiên cứu các văn bản có tổng cộng một triệu từ và đã phát hiện ra rằng, nếu một người hiểu các từ có tần số sử dụng cao nhất, người đó sẽ nhanh chóng hiểu phần lớn các từ trong một văn bản:

Kích thước từ vựng (từ)Độ bao phủ văn bản viết (%)
100072.0
200079.7
300084.0
400086.8
500088.7
600089.9
15,85197.8

Nếu một người hiểu 2000 từ có tần số sử dụng cao nhất, người đó sẽ hiểu 80% số từ trong những văn bản đó. Số lượng này thậm chí còn cao hơn nếu như chúng ta tính cả những từ mà chúng ta tiếp thu trong văn cảnh nói phi chính thức. Sau đó, 2000 từ phổ biến nhất sẽ bao trùm 96% vốn từ vựng.[12] Những con số này nên được khuyến khích đối với những người bắt đầu học tiếng, đặc biệt bởi vì các con số ở trong bảng là dành cho các bổ đề từ (word lemma) và nhiều họ từ sẽ cho tầm bao phủ thậm chí còn cao hơn nữa.

Sự nắm vững từ vựng ngôn ngữ thứ hai

Việc học từ vựng là một trong những bước đầu tiên của việc học ngôn ngữ thứ hai, tuy nhiên một người sẽ không bao giờ đạt tới bước cuối cùng trong việc nắm vững từ vựng. Dù trong tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ hai đi chăng nữa, thì sự nắm bắt một vốn từ mới là một quá trình liên tục. Nhiều phương pháp có thể trợ giúp cho việc nắm bắt vốn từ vựng mới.

Sự ghi nhớ

Mặc dù quá trình ghi nhớ có thể bị xem là chán ngấy và buồn tẻ, việc kết nối một từ trong tiếng mẹ đẻ với từ tương ứng trong ngôn ngữ thứ hai trước khi nó được ghi nhớ được xem là một trong những phương pháp tốt nhất trong việc nắm vững từ vựng. Đến tuổi trưởng thành, học sinh thường đã thu thập được một số phương pháp ghi nhớ. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi cho rằng quá trình ghi nhớ một cách điển hình không yêu cầu quá trình nhận thức phức tạp làm tăng khả năng lưu giữ (Sagarra & Alba, 2006)[13], nhưng quá trình này một cách điển hình vẫn đòi hỏi một lượng lớn số lần lặp lại. Các phương pháp khác một cách điển hình cần nhiều thời gian và lâu hơn để nhớ lại.

Một vài từ có thể không được liên kết dễ dàng thông qua sự kết hợp hay các phương pháp khác. Khi một từ trong ngôn ngữ thứ hai tương tự với một từ trong tiếng mẹ đẻ một cách trực quan hay về phương diện âm vị học, một người thường cho rằng chúng cũng chia sẻ nghĩa tương tự. Mặc dù trường hợp này thường gặp, nhưng nó không phải luôn luôn đúng. Khi đối mặt với từ cùng gốc sai, quá trình ghi nhớ và lặp lại là những chìa khóa để làm chủ. Nếu một người học ngôn ngữ thứ hai chỉ dựa vào các phép kết nối từ để học từ vựng mới, người đó sẽ có một khoảng thời gian rất vất vả để có thể làm chủ các từ gốc sai. Khi một lượng lớn từ vựng phải được tiếp thụ trong một khoảng thời gian giới hạn, khi người học cần nhớ lại thông tin một cách nhanh chóng, khi các từ đại diện cho các khái niệm trừu tượng hoặc khó biểu diễn hình ảnh tinh thần, hoặc khi phân biệt giữa các từ gốc sai, quá trình ghi nhớ cơ học (tự động, máy móc, không có sự tham gia của nhận thức) là phương pháp được sử dụng. Một mô hình mạng nơ-ron của việc học từ tiểu thuyết thông qua chính tả chữ viết, tính đến khả năng ghi nhớ đặc trưng L1 của người học L2 gần đây đã được giới thiệu (Hadzibeganovic & Cannas, 2009).[14] khoảng thời gian giới hạn, khi người học cần nhớ lại thông tin một cách nhanh chóng, khi các từ đại diện cho các khái niệm trừu tượng hoặc khó biểu diễn hình ảnh tinh thần, hoặc khi phân biệt giữa các từ gốc sai, quá trình ghi nhớ cơ học (tự động, máy móc, không có sự tham gia của nhận thức) là phương pháp được sử dụng. Một mô hình mạng nơ-ron của việc học từ tiểu thuyết thông qua chính tả chữ viết, tính đến khả năng ghi nhớ đặc trưng L1 của người học L2 gần đây đã được giới thiệu (Hadzibeganovic & Cannas, 2009).[14]

Phương pháp từ khóa

Một phương pháp hữu ích để xây dựng từ vựng trong ngôn ngữ thứ hai là phương pháp từ khóa. Khi có thêm thời gian hoặc khi một người muốn nhấn mạnh một số ít từ khóa, người đó có thể tạo ra các thiết bị giúp dễ nhớ hoặc các kết hợp từ. Mặc dù những chiến lược này có xu hướng chiếm nhiều thời gian thực hiện và hồi tưởng hơn, chúng tạo ra các liên kết mới và không thông thường có thể tăng khả năng lưu giữ. Phương pháp từ khóa đòi hỏi quá trình tư duy sâu hơn, do đó tăng khả năng lưu giữ (Sagarra & Alba, 2006)[13]. Phương pháp này sử dụng những điều chỉnh phù hợp trong lý thuyết mã hóa kép của Paivio (1986)[15] bởi vì nó dùng cả hai hệ thống ghi nhớ là lời nói và hình ảnh. Tuy nhiên, chỉ nên dùng phương pháp này đối với những từ đại diện cho các đối tượng cụ thể và có thể hình ảnh hóa. Các khái niệm trừu tượng hoặc các từ mang hình ảnh khác biệt đối với bộ não rất khó để kết hợp. Hơn nữa, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc học từ vựng kết hợp thành công hơn với những học sinh còn nhỏ tuổi (Sagarra & Alba, 2006)[13]. Sau này khi học sinh lớn dần lên, chúng có xu hướng ít dựa vào việc tạo kết hợp từ để nhớ từ vựng.

Từ vựng "Tiếng Anh căn bản"

Nhiều danh sách từ đã được phát triển để cung cấp cho những người có một vốn từ vựng hạn chế, hoặc trình độ thông thạo ngôn ngữ nhanh hay một phương tiện truyền thông hiệu quả. Năm 1930, Charles Kay Ogden đã tạo ra tiếng Anh căn bản (850 từ). Các danh sách khác bao gồm tiếng Anh đơn giản hóa (1000 từ) và tiếng Anh đặc biệt (1500 từ). 2000 từ tần số cao trong Danh sách Dịch vụ Tổng hợp (General Service List),[16] biên soạn bởi Michael West từ ngữ liệu 5.000.000 từ, đã được sử dụng để tạo ra một số văn bản đọc phù hợp với người học tiếng Anh. Biết 2.000 từ tiếng Anh, một người có thể hiểu được khá nhiều tiếng Anh, và thậm chí đọc rất nhiều tài liệu đơn giản mà không gặp vấn đề.

Sự khác biệt từ vựng giữa các tầng lớp xã hội ở Hoa Kỳ

James Flynn báo cáo sự khác biệt đáng kể trong tiếp xúc với từ vựng của trẻ chưa đến tuổi đi học giữa các tầng lớp khác nhau ở Hoa Kỳ. Rõ ràng, trẻ chưa đến tuổi đi học ở các gia đình chuyên nghiệp thường tiếp xúc với 2.150 từ khác nhau, còn trẻ chưa đến tuổi đi học ở các gia đình tầng lớp công nhân thường tiếp xúc với 1.250 từ, trong khi các trẻ đến từ các hộ gia đình sống nhờ phúc lợi xã hội chỉ tiếp xúc với khoảng 620 từ.[17]